Bài thơ ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người vợ, của người phụ nữ đảm đang chịu thươngchịu khó vì chồng con.
Hình ảnh bà Tú, người vợhiền thảo
- Câu 1, 2 giới thiệu bà Tú là một người đàn bà giỏi buôn bán, tần tảo “quanh năm”, buôn bán kiếm sống ở “mom sông”,cảnh đầu chợ, bến đò, buôn thúng bán mẹt. Chẳng có cửa hàng cửa hiệu. Vốn liếng chẳng có là bao. Thế mà vẫn “Nuôiđủ năm con với một chồng?”. Chồng đậu tú tài, chẳng là quan cũng chẳng là cùng đinh nên phải “ăn lương vợ”. Một gia cảnh “Vợ quen dạ để cách năm đôi”. Các số từ: “năm” (con), “một” (chồng) quả là đông đúc. Bà Tú vẫn cứ “nuôi đủ”, nghĩa là ông Tú vẫn có “giày giôn anh dận, ô Tâyanh cầm”,… Câu thứ 2 rấthóm hỉnh.
- Câu 3-4 mượn hình ảnh con cò trong ca dao, tạo thành “thân cò” - thân phận lam lũ vất vả, “lặn lội”. Cò thì kiếm ăn nơi đầu ghềnh, cuối bãi, bà Tú thì lặn lội… khi quãng vắng, nơi mom sông. Cảnhlên đò xuống bến, cảnh cãi vã, giành giật bán mua“eo sèo mặt nước buổi đòđông” để kiếm bát cơm manh áo cho chồng, con. Hình ảnh “thân cò” rất sáng tạo, vần thơ trở nên dân dã, bình dị. Hai cặp từ láy: “lặn lội” và “eo sèo” hô ứng, gợi tả một cuộc đời nhiều mồ hôivà nước mắt.
- Câu 5, 6, tác giả vận dụng rất hay thành ngữ: “Một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”. Batiếng đối ứng thượng, hạ:“âu đành phận”, “dám quản công” như một tiếngthở dài. Có đức hy sinh. Có sự cam chịu số phận. Có cả tấm lòng chịu đựng,lo toan vì nghĩa vụ người vợ, người mẹ tronggia đình. Tú Xương có tài dùng số từ tăng cấp (1-2-5-10) để nói lên đứchy sinh thầm lặng cao quýcủa bà Tú:
“Một duyên hai nợ/âu đành phận,
Năm nắng mười mưa/dám quản công”.
Tóm lại, bà Tú là hiện thân của cuộc đời vất vả lận đận, là hội tụ của bao đức tính tốt đẹp: tần tảo, gánh vác, đảm đang, nhẫn nại,… tất cả lo toan cho hạnh phúc chồng con.Nhà thơ bộc lộ lòng cảm ơn, nể trọng.
Nỗi niềm nhà thơ
- Câu 7 là một tiếng chửi, đúng là cách nói của Tú Xương vừa cay đắng vừaphẫn nộ: “Cha mẹ thói đờiăn ở bạc”. “Cái thói đời” đó là xã hội dở Tây dở ta, nửa phong kiến nửa thực dân: đạo lý suy đồi, lòng người đảo điên. Tú Xương tự trách mình là kẻ“ăn ở bạc” vì thi mãi chẳng đỗ, chẳng giúp được ích gì cho vợ con. Suốt đời vợ con phải khổ, như có bài thơ ông tự mỉa: “Vợ lăm le ở vú -Con tập tểnh đi bộ - Khách hỏi nhà ông đến - Nhà ông đã bán rồi”.
- Câu 8 thấm thía một nỗiđau chua xót. Chỉ có Tú Xương mới nói được rungđộng và xót xa thế: “Có chồng hờ hững cũng nhưkhông”. “Như không” gì? Một cách nói buông thõng,ngao ngán. Nỗi buồn tâm sự gắn liền với nỗi thế sự. Một nhà nho bất đắc chí!
Kết luận
Bài thơ có cái hay riêng. Hay từ nhan đề. Hay ở cách vận dụng ca dao, thành ngữ và tiếng chửi. Chất thơ mộc mạc, bình dịmà trữ tình đằm thắm. Trong khuôn phép một bàithơ thất ngôn bát cú Đường luật, từ thanh điệu, niêm đến phép đôi được thể hiện một cách chuẩn mực, tự nhiên, thanh thoát. Tác giả vừa tự trách mình vừa biểu lộ tình thương vợ, biết ơn vợ. Bà Tú là hình ảnh đẹpđẽ của người phụ nữ ViệtNam trong một gia đình đông con, nhiều khó khănvề kinh tế. Vì thế nhiều người cho rằng câu thơ “Nuôi đủ năm con với mộtchồng” là câu thơ hay nhất trong bài “Thương vợ”.
Thống kê trang wap
Email:anthuanxtgem@yahoo.com hoặc liên hệ 01675200310